Ung thư túi mật về mặt đại thể: là tổn thương dạng u, dày thành, hoặc dạng loét. Về vi thể, ung thư túi mật gặp ung thư biểu mô tuyến chiếm trên 90% còn lại là ung thư trung mô, hỗn hợp giữa ung thư biểu mô và trung mô. ..Nhìn chung, ung thư túi mật, có tiên lượng rất xấu, thời gian sống sau 5 năm dưới 10% nếu phát hiện muộn. Ung thư túi mật được mô tả đầu tiên vào năm 1777, vai trò của đột biến gen và viêm nhiễm là nguyên nhân chính. Theo Meriggi, người Mỹ, ung thư túi mật là do đột biến gen sinh ung P53 ở vị trí đoạn ngắn của nhiễm sắc thể 17.
Khối u túi mật
Tác giả khác, theo Singh – Ấn Độ, nghiên cứu vai trò về gen trong bệnh lý ung thư túi mật, tác giả nhận thấy các đột biến gen được tích lũy liên tục trong quá trình phát triển khối u. Sự mất đoạn không ngẫu nhiên ở các nhiễm sắc thể 3p, 4q, 5q, 9b, 10p, 10q, 11p, 14p, 15p, 17p. Các dấu ấn đa hình và hiện tượng mất dị hợp tử đã tìm thấy trong các nhánh của nhiễm sắc thể 1p, 3p, 5p, 5q, 6q, 8p, 9p, 9q,13q, 16q, 17p trong ung thư túi mật. Mất dị hợp tử cánh tay ngắn nhiễm sắc thể 13q và 18q khi ung thư túi mật ở giai đoạn III và IV. Mất dị hợp tử khi biểu mô loạn sản ở các nhánh trong nhiễm sắc thể 3p, 5p, 9q, 13q, 16q, 17p gợi ý rằng những thay đổi này xảy ra ở giai đoạn sớm trong quá trình phát sinh bệnh ung thư túi mật. Sự mất đi tính dị hợp tử của gen đè nén khối u p53, DCC, APC, RB và NM23-H1; mất dị hợp tử ở cánh tay dài nhiễm sắc thể 17p tăng theo sự tiến triển của khối u và liên quan đến sự di căn, phổ biến ở ung thư biểu mô tuyến túi mật di căn hơn là so với chưa di căn. Đột biến RAS đặc biệt K-ras trong ung thư túi mật khi lớp biểu mô tăng sản quá mức làm cho những gen bình thường có thể bị biến đổi gây ra bệnh ung thư và trở thành gen gây bệnh ung thư túi mật. Ung thư túi mật giai đoạn muộn, protein p53 và gen mã hóa gây chết tế bào cyclin D1 và cyclin E, gen BCL2 bị đột biến. Đột biến K-ras chiếm 39 -59% trong ung thư túi mật.
Polyp túi mật: đơn polyp, lớn nhanh, kích thước trên 10 mm; polyp gặp ở người trên 50 tuổi.
Sỏi túi mật: là một trong những nguyên nhân gây ung thư túi mật, sỏi càng lớn khả năng ung thư túi mật càng tăng.
Viêm mạn tính niêm mạc túi mật được cho là yếu tố có thể gây ung thư túi mật.
Theo Yalcin- Mỹ, hiện tượng niêm mạc túi mật viêm mạn tính gây chuyển sản hoặc nghịch sản tế bào hình thành ung thư tại chỗ, phát triển thành giai đoạn xâm lấn và di căn xa.
Viêm ruột, nhiễm hóa chất: Methylcholanthrene có thể do được tổng hợp từ aciddeoxycholic. Acid mật có thể là nguyên nhân gây nghịch sản ở niêm mạc dạ dày, ruột và túi mật. Các hóa chất khác như: O-aminoazotoluene, Aflatoxin B và các Nitrosamines.
Yếu tố vi trùng và mật: người ta tìm thấy sự có mặt của vi trùng thương hàn, sự có mặt vi trùng Helicobacter pylori,các chủng Helicobacter Bilis, Helicobacter Hepaticus, và Escherichia coli trong dịch mật là tác nhân bệnh sinh và làm tăng nguy cơ ung thư túi mật.
Nhiễm kim loại nặng: ở môi trường ô nhiễm gây tăng nồng độ Cadmium, Chromium trong dịch mật được tìm thấy ở bệnh nhân ung thư túi mật. Metallothionein là chất có trọng lượng phân tử thấp, là một protein gắn với kim loại có vai trò như là một gốc tự do bảo vệ chống lại sự nhiễm độc kim loại nặng. Metallothionein tăng cao trong ung thư túi mật (70,3%).
Chẩn đoán thường dựa vào siêu âm bụng, CT, hoặc chụp MRI vùng bụng. Bệnh nhân mắc ung thư túi mật giai đoạn đầu rất khó phát hiện vì không có triệu chứng. Về sau hay đau tức dưới sườn bên phải, ăn uống chậm tiêu, đôi khi có sốt.
Điều trị: Khi mắc bệnh ung thư túi mật, chỉ có phương pháp cắt bỏ túi mật là tốt nhất. Tùy theo giai đoạn, bác sĩ chuyên khoa Ngoại gan mật sẽ có chỉ định phẫu thuật hợp lí. Phẫu thuật cắt túi mật kèm cắt phân thùy gan IVB, V…Hóa và xạ trị chỉ có tác dụng hổ trợ.
Phòng bệnh: Nên đi khám siêu âm bụng định kỳ 6 tháng/ lần. Những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ gây ung thư túi mật như polyp túi mật, sỏi túi mật thì định kỳ 3 tháng đi khám siêu âm một lần.
Siêu âm ổ bụng để phát hiện ung thư túi mật
Ăn uống cẩn thận, uống nhiều nước, ăn nhiều rau và hoa quả giàu dinh dưỡng và vitamin, hạn chế mỡ, tránh các thức ăn nhiễm hóa chất, đậu mốc…
Ung thư túi mật
Nguồn: Nguyễn ĐÌnh Tuyến, BVSN Quảng Ngãi